Tân TBT Tô Lâm sẽ tiếp tục di sản ‘dở dang’ của người tiền nhiệm thế nào? (Phần bốn)

Tân Tổng bí thư Tô Lâm bảo vệ tư tưởng của Đảng thế nào?

Trong nỗ lực cứu Đảng Cộng sản, cố TBT Nguyễn Phú Trọng đã nhân danh một chiến dịch chống tham nhũng nhằm cố gắng thay đổi bản chất con người thay vì thay đổi hệ thống chính trị đầy tham nhũng. Ngoài “đức trị” do ảnh hưởng của khổng giáo ông ấy kiên định vận dụng tư tưởng Mác – Lênin, trong đó đề cao chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa chuyên chế, vào công tác lãnh đạo đảng, bỏ qua các quy tắc và chuẩn mực vốn nhằm kiểm soát quyền lực, tái tập trung quyền lực đảng, lấn át phân quyền cho bộ máy hành chính, thanh trừng các nhà kỹ trị, quan chức chính phủ “tự chuyển hoá”, đàn áp giới bất đồng chính kiến, xoá sổ xã hội dân sự và thúc đẩy sự trỗi dậy của ngành công an… Tất cả tạo nên hệ tư tưởng của đảng. Hệ tư tưởng đảng cung cấp cơ sở để lý giải nguyên nhân vì sao Đại tướng công an Tô Lâm, dù không phải là người kế vị chính thức, nhưng đã nhanh chóng và “suôn sẻ” thâu tóm quyền lực để trở thành lãnh đạo “vô đối”, Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước, ngay sau khi ông Trọng qua đời. Giờ đây, các nhà quan sát đang dõi theo ông Tô Lâm bảo vệ tư tưởng của Đảng thế nào?

Trước hết, về nguyên lý và thực tế chỉ ra, hệ tư tưởng Đảng CS Việt Nam là “bản sao”, rõ nét nhất so với các nước dương ‘ngọn cờ XHCN’ như Cu Ba, Triều Tiên, Lào, Venezuela…, là từ mô hình Đảng CS Trung Quốc. Về nguyên lý, cả hai đảng cầm quyền tương đồng, về cơ bản, hệ thống chính trị dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội, và có chút sự khác biệt là việc diễn giải nó trong bối cảnh lịch sử hay điều kiện đặc thù của mỗi nước. Chẳng hạn, ở  Trung Quốc tư tưởng Mao Trạch Đông và ở Việt Nam tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung thêm hay xã hội chủ nghĩa được xây dựng “mang bản sắc Trung Quốc” còn ở Việt Nam thì “định hướng xã hội chủ nghĩa”… Sự tương đồng này được làm sâu sắc hơn từ đầu những năm 2010 khi TBT Nguyễn Phú Trọng lên cầm quyền song hành với TBT Tập Cận Bình, và có thể được nhận biết qua các hành động của mỗi đảng. Điển hình, ở bề nổi dễ quan sát, như chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc thì ở Việt Nam là chiến dịch đốt lò và, ở phần chìm khó nhận biết hơn, như chủ trương, chính sách “an ninh chế độ”[1] được thiết kế và thực thi…

Việc vận dụng vào thực tế Việt Nam và tìm bản sắc dân tộc trong nỗ lực xây dựng cơ sở lý luận bởi cố TBT Trọng cho hệ tư tưởng đảng cũng là “thành công.” Tuy nhiên, thực tế vận hành, theo quan sát riêng, cho thấy triết lý thực dụng, được cho là của Đặng Tiểu Bình giúp Trung Quốc trỗi dậy nhanh và mạnh mẽ, kéo dài trong hơn 3 thập kỷ, trong khi đó việc vận dụng triết lý thực dụng vào môi trường “Đổi mới” ở Việt Nam dường như không được “đậm nét”, thậm chí “sai lệch”, trong đó vai trò của Đảng yếu dần trong khi Chính phủ có xu hướng mạnh lên, lấn át. Giai đoạn “trỗi dậy” ở Việt Nam ngắn hơn, nổi bật dưới thời cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, sau đó “biến tướng” bắt đầu từ thời nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cố TBT Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo được chọn bởi thoả hiệp phe phái trước Đại hội 11 năm 2011, đã nhận thấy và định danh là những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá” kèm theo với nạn tham nhũng. Ông ấy đã nỗ lực giành lại quyền lãnh đạo tập trung của Đảng, trong đó tăng cường chống tham nhũng kết hợp thanh trừng phe phái và củng cố tư tưởng Đảng là hai mũi nhọn đột phá. Đó thực sự mang “dấu ấn” của ông Trọng và, những gì diễn ra từ đó cho đến nay… hình thành các di sản nhưng còn dở dang cho thế hệ lãnh đạo sau, khởi đầu là tân Tổng bí thư Tô Lâm.

Về nguyên lý, việc xây dựng và vận hành hệ tư tưởng đảng CS là quá trình phức tạp, nhưng để làm sáng tỏ thì sự cần thiết phải có tiếp cận từ tính chất toàn trị của chế độ nói chung, từ khởi đầu của nó từ những thập niên đầu thế kỷ 20 dưới hình thức chế độ toàn trị kiểu phát xít Hitler ở Đức hay Mussolini ở Ý đến kiểu toàn trị Đảng CS như mô hình Trung Quốc hiện nay. Giới nghiên cứu đã chỉ ra giữa chúng rất ít sự khác biệt, chủ nghĩa phát xít công khai tuyên bố theo chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng sản, trên lý thuyết, biểu dương chủ nghĩa quốc tế, nhưng trên thực tế, vẫn luôn luôn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa, cũng đều nhắm, trước hết, đến quyền lợi của quốc gia và dân tộc của họ. Và cả hai đều là những chế độ độc tài (cá nhân hay tập thể) vô cùng tàn bạo.[2]

Khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ với chính sách cải cách và mở cửa đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và giới chính trị, trong đó bản chất toàn trị trong thực tế được phân tích nghiêm túc. Một trong những vấn đề được nêu ra là vì sao chủ nghĩa cộng sản sống thọ ở một số nước Đông Á mà Trung Quốc là điển hình? Sau đây là một cách lý giải:[3] 

Một là, chủ nghĩa cộng sản (CNCS) mặc dù ra đời từ giữa thế kỷ 19 nhưng vẫn có sức hấp dẫn với đa số người dân, kể cả giới trí thức, ở các nước kém phát triển, trong đó có Việt Nam, sau khi giành được độc lập từ chủ nghĩa thực dân, đế quốc vốn bị ác cảm, thậm chí là “căm thù” sau hàng trăm năm bị đô hộ. Họ tiếp cận với CNCS như là một mô hình xây dựng nhà nước với sự hứa hẹn về tương lai thịnh vượng với “Tự do, Bình đẳng và Bác ái”, trước hết là một nhà nước xã hội chủ nghĩa chu cấp cho mọi vấn đề từ y tế, giáo dục đến những nhu cầu cơ bản cá nhân như ăn, ở, mặc…

Hai là, mặc dù lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản của Các Mác còn nhiều “tranh cãi”, nhưng khi áp dụng để phổ biến và tuyên truyền, đặc biệt với phương pháp luận biện chứng phức tạp, lại biến thành các câu trả lời khá đơn giản theo ý chí của nhà cầm quyền, cho các vấn đề bao gồm cả độc lập dân tộc, nạn đói, việc làm, công nghiệp hóa, toàn cầu hoá… Sự nguỵ biện được thấy trong nhiều phạm trù như đầu tư trực tiếp nước ngoài, thị trường, bóc lột sức lao động… Ở đây, nhiều giá trị thuộc chủ nghĩa tư bản, từng bị coi đối nghịch với CNXH, đã không hề được nói đến;

Ba là, giới trí thức là thành phần xã hội chịu ảnh hưởng lớn nhất của chủ nghĩa Mác và, khi ở trong hệ thống chính trị họ trở thành giới tinh hoa vận dụng chúng để biến thành hệ tư tưởng đảng CS, truyền bá và dẫn dắt hành động toàn trị và xây dựng và áp đặt một kiểu ý thức hệ cho toàn xã hội:

Bốn là, nho giáo, khổng giáo, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá – xã hội của người dân, được cho là có “mối liên hệ đồng biến” với chủ nghĩa cộng sản.” Điển hình là tư tưởng, giáo lý về mục tiêu và kết quả cuối cùng của một xã hội lý tưởng, trong con người được giải phóng khỏi các tham vọng, tư sản và các giá trị vật chất, được sống đúng với bản chất danh nghĩa con người (theo thuyết chính danh Khổng tử), hay đúng với tự nhiên hoàn bị (theo thuyết cộng sản của Mác). Trên cơ sở đó, “mọi cái đều là của chung, mọi người đều có quyền lợi, đều được chăm sóc”.

Năm là, như một hệ quả, chủ nghĩa cộng sản được “chấp nhận, dù nó không phải là CNCS.” Xã hội cộng sản là thiên đường nhưng trong tương lai, trước mắt là thời kỳ quá độ, bỏ qua tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Bởi vậy, mọi người hay chờ đợi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng…

Tuy nhiên, quá trình vận hành hệ tư tưởng đảng trong bối cảnh chuyển đổi thị trường đã chỉ ra thực tế không “bền vững” như thế. Thay thế công cụ kế hoạch hoá tập trung kinh tế thị trường đã khiến các quốc gia với chế độ Đảng CS toàn trị tuân theo tính quy luật phát triển với chu kỳ thịnh suy: trỗi dậy, đỉnh cao và thoái trào. Mô hình Trung Quốc đang suy thoái với nhiều vấn đề thách thức và, Việt Nam cũng vậy. Giới cầm quyền đang bảo vệ tư tưởng đảng bằng cách tăng cường chuyên chế, bạo lực theo luật “Quân vương” – cuốn sách về bản chất của chế độ chính trị của Machiavelli[4] với sự tàn bạo của nhà cai trị “thà phụ người chứ không để người phụ ta”, trong khi các nỗ lực “lãnh đạo trí tuệ và đạo đức” của Đảng như Gramsci[5] đề xuất “làm chủ văn hoá”  thì ngày càng trở nên xa thực tế thị trường và kém thuyết phục bởi tha hoá quyền lực, tham nhũng.

Di sản là di sản, nhưng còn ‘dở dang’, nên sự sẽ thay đổi sẽ khó lường không chỉ tuỳ thuộc vào ý chỉ chủ quan của cá nhân lãnh tụ của chế độ. Một số yếu tố của tư tưởng đảng đang có xu hướng quay về quá khứ toàn trị “kiểu Mao”, trong đó nổi bật là hai chủ lưu “chính trị ký ức” và “tôn giáo chính trị” được nỗ lực truyền bá phục vụ duy trì chế độ. Liệu có hy vọng tân Tổng bí thư Tô Lâm và những thế hệ kế tiếp sẽ thực dụng để cải cách hệ tư tưởng phục vụ cho sự phát triển đất nước khi đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích của chế độ?

* Bài viết không phản ánh quan điểm của Đài Á châu Tự do

Tham khảo:

Related posts